Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cảnh sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ dẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô quen cật vận xềnh xoàng” đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị ràng buộc bởi vòng “danh lợi” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường” là ngày dài. “Rồi” là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, thong thả, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày dài rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn.
Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh hè làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè. Cảnh sắc hè trước hết là bóng hòe, màn hòe. Lá hòe xanh thẫm, xanh lục. Cảnh hòe sum sê, um tùm, lá “đùn đùn” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Tán hòe tỏa bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “giương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình gởi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp giương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và hình tượng.
Click Download
ĐỌC TIẾP